Tình hình phát triển ngành Logistics tại Việt Nam
Số lượng doanh nghiệp logistics tại Việt Nam có xu hướng tăng qua các năm. Tính đến hết năm 2018, có hơn 36 nghìn doanh nghiệp hoạt động trong ngành Logistics, tăng 2.57% so với năm 2017. Đa số doanh nghiệp Logistics của Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp trong nước (chiếm 88%), 10% doanh nghiệp liên doanh và 2% là doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Nguồn: VIRAC
Hiện tại, đa số doanh nghiệp logistics nội địa có quy mô nhỏ, năng lực tài chính, trình độ quản lý hạn chế, chủ yếu vẫn dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ dịch vụ vận tải hàng hóa. Trong đó, có khoảng 70% các doanh nghiệp đang nằm trong chuỗi 1PL và 2PL, được đánh giá là tạo ít giá trị gia tăng trong dịch vụ Logistics do số lượng hàng hóa thường không lớn và quá trình vận chuyển giản đơn. Trong khi đó, các chuỗi cung cấp Logistics 3PL và 4PL hầu hết đều thuộc các doanh nghiệp lớn trên thế giới sở hữu một hệ thống Logistics toàn diện (Tập đoàn Unilever, P&G,…) và có các hệ thống bán lẻ rộng (Hệ thống siêu thị BigC, Metro, Aeon…).
Nguồn: VIRAC
Thách thức, rủi ro với ngành Logistics
Thách thức về tự do cạnh tranh
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng với việc hoàn tất ký kết 10 Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần phải cạnh tranh với các doanh nghiệp logistics nước ngoài. Hiện nay đã có khá nhiều doanh nghiệp logistics các nước thuộc khối ASEAN sang Việt Nam đầu tư mở rộng thị trường.
Thách thức về chất lượng dịch vụ
Các doanh nghiệp logistics Việt Nam chưa cung cấp được dịch vụ logistics hoàn chỉnh. Đa phần chỉ đảm nhận vai trò vệ tinh cho các công ty logistics nước ngoài, thực hiện các nghiệp vụ đơn lẻ khai báo hải quan, cho thuê phương tiện vận tải nội địa, kho bãi, mua bán cước phí… Những dịch vụ mang lại giá trị gia tăng cao, đặc biệt là dịch vụ logistics trọn gói “door to door” chưa được quan tâm. Hoạt động logistics chưa tạo thành một chuỗi liên tục trong chuỗi cung ứng.
Thách thức về ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử
Các doanh nghiệp trong ngành logistics Việt Nam thường quản lý thủ công, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp. Mức độ ứng dụng thương mại điện tử (bao gồm cả trao đổi EDI và vận đơn điện tử, chứng từ điện tử…) của các doanh nghiệp Việt Nam yếu và thua kém so với các doanh nghiệp logistics nước ngoài, chưa có khả năng liên kết với các mạng lưới dịch vụ logistics khác. Do vậy, doanh nghiệp logistics Việt Nam chỉ có thể làm các dịch vụ đơn lẻ cho các doanh nghiệp logistics nước ngoài.
Thách thức về nguồn nhân lực
Tại Việt Nam, hiện chưa có cơ sở đào tạo chuyên nghiệp về logistics. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu là tự đào tạo theo kinh nghiệm thực tế, mức độ chuyên nghiệp còn kém. Khi thị trường bùng nổ, các doanh nghiệp logistics sẽ phải đối diện thêm với xu hướng thiếu hụt nhân lực giỏi do sức hút của các doanh nghiệp ngoại hoặc tự tách ra thành lập công ty riêng.
Nguồn: VIRAC
Quy hoạch phát triển ngành Logistics Việt Nam
Ngành logistics đóng vai trò luân chuyển và quản lý lưu trữ hàng hóa trong nền kinh tế, hoàn thiện và tối ưu chuỗi cung ứng sản xuất. Theo quyết định số 1481/QĐ-BGTVT về quy hoạch hoạt động vận tải, đến năm 2020, tổng trọng tải đội tàu đạt khoảng từ 6.8 đến 7.5 triệu DWT. Nâng cao thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu lên 25 – 30%. Quy hoạch điều phối Logistics (Quyết định 175/QĐ-TTg) định hướng hình thành dịch vụ trọn gói 3PL, thương mại điện tử và quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả và thân thiện. Tốc độ tăng trưởng thị trường logistics đạt 20 – 25% năm với tỷ lệ thuê ngoài logistics đến năm 2020 là 40%.
VIRAC dự báo giai đoạn 2019 – 2021, đường bộ tiếp tục là loại hình vận tải chiếm doanh thu lớn nhất. Trước ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, và đại dịch Covid-19 đến ngành Logistics, doanh thu các loại hình vận tải được dự báo sẽ giảm khoảng 20% trong năm 2020. Ngành Logistics được dự báo sẽ hồi phục mạnh mẽ vào năm 2021.
Bên cạnh đó, hiệp định EVFTA có hiệu lực dự báo sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho ngành dịch vụ logistics, bởi Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội thu hút nhà đầu tư nước ngoài, với làn sóng chuyển dịch mạnh mẽ của nhiều nhà máy từ các nước trong khu vực. Đặc biệt EVFTA được dự báo sẽ là đòn bẩy để Việt Nam đón nhận nguồn vốn đầu tư lớn của các doanh nghiệp FDI.